Windows: Tổng hợp và xếp hạng những hệ điều hành được ra mắt sau 35 năm

Quân Kít

Đây cũng là thời điểm thích hợp để nhìn lại lịch sử 35 năm của Windows.

Trước thềm ra mắt Windows 11, chúng ta hãy cùng nhìn lại và xếp hạng những phiên bản được phát hành được đánh giá từ tệ đến tốt nhất. Đây cũng là thời điểm thích hợp để nhìn lại lịch sử 35 năm của Windows.

Windows 8 (2012)

 

Sau sự ra mắt Windows 7 vô cùng thành công và được yêu thích, Microsoft đã cố gắng thử thách một hệ điều hành tiếp theo vào năm 2012. Đầu những năm 2010 là thời điểm có sự thay đổi lớn và nhanh chóng đối với ngành công nghệ, chủ yếu là do sự thành công của smartphone và máy tính bảng (cụ thể là iPhone và iPad). Các chuyên gia gọi đây là thời kỳ chết chóc của PC từ khi màn hình cảm ứng xuất hiện. Microsoft đã nhìn vào thành công to lớn đó và họ đã cố gắng tạo một hệ điều hành Windows mới lai giữa PC và máy tính bảng. 

Và do đó, phiên bản Windows tồi tệ nhất đã được sinh ra: một hệ điều hành được xây dựng cho cả desktop và màn hình cảm ứng. Windows 8 đã thất bại trong việc thu hút người dùng máy tính để bàn, những người vẫn đang thoải mái hơn với trình đơn Start, Desktop... tiêu chuẩn và các tính năng quen thuộc khác của Windows 7. Microsoft đã cố gắng giải quyết các vấn đề nghiêm trọng nhất về giao diện người dùng của Windows 8 với Windows 8.1 vào năm 2013, fix và khôi phục nút Start trên thanh taskbar. Điều đó giúp cho Windows 8.1 dễ sử dụng hơn, nhưng nó vẫn còn một sự pha trộn vụng về giữa giao diện máy tính để bàn và máy tính bảng.

Vào mùa xuân năm 2015, ngay trước khi Windows 10 phát hành, 8 và 8.1 gộp lại chỉ có 14% thị trường PC. Windows 10 sẽ vượt qua tỷ lệ phần trăm đó trong vòng một năm.

Windows Me (2000)

Không phải là một dấu hiệu tốt khi một phiên bản Windows tồn tại chỉ dưới một năm. Windows Millennium Edition (hay còn được gọi là Windows Me) là một hệ điều hành tạo ra để phục vụ cho những hộ gia đình.

Windows ME được coi là sự kế thừa của dòng Windows 98 SE. Theo nghĩa, đây là hệ điều hành thu thập tất cả các lỗi và vấn đề của các phiên bản đó và kết hợp chúng thành một hệ điều hành hoàn hảo. Trên thực tế, nó trông giống như Windows 98 và không có tính năng mới nào mà nó giới thiệu đã làm được nhiều điều để bù đắp. 

Có lẽ lỗi lớn nhất trên Windows ME là hạn chế quyền truy cập của người dùng vào DOS mặc dù là hệ điều hành Windows cuối cùng được xây dựng trên nền tảng DOS. Nó đã kết thúc một kỷ nguyên đột phá của Windows , nhưng XP đã xuất hiện chỉ một năm sau đó.

 

Windows Vista (2006)

Không quá khi nói rằng Vista đã mang trong mình dấu hiệu của sự thất bại ngay từ những ngày đầu ra mắt. Vista chắc chắn đòi hỏi cao hơn Windows XP và một số hệ thống được quảng cáo là có thể chạy Vista thực sự không thể ... hoặc chúng chỉ có thể nếu bạn tắt tất cả các tính năng đồ họa, như hiệu ứng Aero trong suốt. Và Vista là một cuộc đại tu lớn như vậy đối với hệ điều hành đến từ XP, Vista cần những trình điều khiển hoàn toàn mới vốn chậm được cập nhật. Điều đó có nghĩa là một số phần cứng không hoạt động trên Vista và nhiều trò chơi chạy tệ hơn nhiều so với trên XP. 

Khá nhiều người dùng không thích tính năng User Account Control khi được mở lên. Tính năng khá phiền phức khi buộc người dùng sử dụng xác nhận khi họ muốn thay đổi cài đặt cụ thể.  

Nhưng bên cạnh những sai sót đó, Vista đã giới thiệu một loạt các tính năng mới và trông có vẻ vượt trội hơn so với XP. Vista cũng yêu cầu phần cứng mạnh hơn nhiều so với Windows XP. Điều này hợp lý, vì nó ra mắt sau 6 năm và có nhiều tính năng hơn.. Điều tốt nhất có thể nói đối với Vista là hầu hết các cải tiến cơ bản của nó hầu như không thay đổi trong Windows 7 chỉ vài năm sau đó… và mọi người đều yêu thích chúng.

 

Windows 1.0, 2.0, 3.0 (1985, 1987, 1990)

Trong những ngày đầu, khi mà Windows chưa phổ biến. Là một lớp phủ đồ họa cho MS-DOS. Trong Windows 1.0, các tab thậm chí không thể chồng lên nhau. Hệ điều hành Macintosh mạnh mẽ hơn nhiều và Windows chỉ được sử dụng hạn chế với các phiên bản 1.0 và 2.0. Tuy nhiên, 2.0 là một cột mốc quan trọng: nó cũng chứng kiến ​​sự ra đời của Microsoft Word, Excel và Paint, cùng với một số tính năng cơ bản như máy tính, lịch và file. 

Windows 3.0 là nơi mọi thứ thực sự bắt đầu xảy ra. Ở thời điểm đó, người dùng PC có thể thực hiện một số tác vụ trong Windows, nhưng vẫn phải chuyển sang lời nhắc DOS để chạy nhiều ứng dụng. Windows 3.0 (và mọi phiên bản cho đến 98) vẫn dựa trên DOS và bạn vẫn phải chuyển sang một số chương trình, đặc biệt là để chơi hầu hết các trò chơi, nhưng đó là một bước tiến lớn.

Và Windows 3.0 đã thành công vang dội, bán được 10 triệu bản, với giao diện đồ họa được cải thiện rất nhiều so với Windows 2.0. Bạn có thể làm nhiều việc cùng một lúc nhờ quản lý bộ nhớ thông minh hơn, Solitaire. Đây là điểm mà Windows đã vượt qua ngưỡng từ việc trở thành một tiện ích bổ sung khá hữu ích cho DOS, trở thành một cách tốt hơn, dễ dàng hơn cho hầu hết mọi người để thực hiện mọi việc trên máy tính của họ.

 

Windows 95 (1995)

Menu Start là cải tiến lớn nhất trong giao diện người dùng máy tính sau biểu tượng có thể nhấp. Windows 95 thực sự giống như một bước nhảy vọt về cách chúng ta sử dụng máy tính của mình. Thiết kế cơ bản của Windows hầu như không thay đổi từ đây cho đến Windows 8. Phiên bản này được người dùng xếp hàng để mua tương tự như những chiếc iPhone ở thời điểm hiện tại.

Vì vậy, phần lớn những gì Microsoft giới thiệu trong Windows 95 vẫn là chìa khóa cho PC của chúng ta ngày nay. Chúng ta vẫn sử dụng Menu Start thanh taskbar và system theo cùng một cách; những tính năng đó đã được chứng minh là có khả năng phục hồi ngay cả khi chính Microsoft đang cố gắng thay thế chúng. Windows 95 đã thiết lập một tiền lệ về khả năng tương thích mà các phiên bản Windows sau này hầu hết sẽ tuân theo, chạy trên nền DOS và vẫn hỗ trợ các ứng dụng 16 bit trong khi được xây dựng cho tương lai 32 bit.

Có thể nói Windows 95 là cột mốc đánh dấu quan trọng lịch sử đối với hệ điều hành máy tính nói riêng và giới công nghệ nói chung. Đến giữa năm 1999, Windows 95 vẫn sở hữu gần 60% thị trường PC , điều mà Windows 98 không thể hy vọng sẽ vượt qua. Năm 1995, Microsoft đạt doanh thu khoảng 6 tỷ USD. Năm 1997, con số đó đã tăng lên hơn 11 tỷ đô la .

Windows 95 chắc chắn có những sai sót và dễ gặp sự cố, nhưng đa phần người dùng bỏ qua vì những gì Windows 95 mag lại là quá ổn định.

 

Windows 98 (1998)

Vào thời điểm Windows 98 xuất hiện, Microsoft đã giới thiệu Internet Explorer và phát triển nó lên phiên bản 4.0. Trở lại năm 95, Microsoft chỉ nhận được một tin đồn về Internet, nhưng nó không thể hoàn thành Internet Explorer kịp thời để xuất xưởng nó với sự ra mắt ban đầu của Windows 95. Đến năm 1998, Internet Explorer là một phần cốt lõi của hệ điều hành, và Windows 98 về tổng thể được thiết kế tốt hơn cho kết nối internet.

Windows 98 đã giới thiệu một số tính năng quan trọng như Windows Driver Module và hỗ trợ USB tốt hơn sẽ trở nên phổ biến hơn trong các phiên bản kế nhiệm. Phiên bản thứ hai của năm 1999 đã hoàn thiện hơn nữa hệ điều hành này. Nhìn lại, Windows 98 là tiền thân của các bản cập nhật theo mùa lớn nhất của Windows 10, hay còn gọi là nhịp điệu của Vista-to-7 và 8-to-10. Nó không đột phá, nhưng đây đã thực hiện những nâng cấp quan trọng để giữ cho hệ điều hành cạnh tranh và tương thích với phần cứng mới nhất trong thời gian thay đổi nhanh chóng.

(Còn tiếp)

Bài cùng chuyên mục