Sau“10 Cloverfield Lane”, đến lượt tác phẩm kinh dị indie của đạo diễn Trey Edward Shults khắc họa sự tàn nhẫn giữa người với người khi bị đẩy vào bước đường cùng.
Bộ phim lấy bối cảnh giả định trong tương lai, khi một dịch bệnh bí ẩn đã bộc phát trên toàn thế giới. Người cha Paul (Joel Edgerton) cùng gia đình mình phải ẩn nấp trong một ngôi nhà ở ngoại ô, và họ luôn phải tuân theo một quy luật nghiêm ngặt để đảm bảo sinh tồn: Không bao giờ được ra ngoài trừ khi thực sự cần thiết.
“It Comes at Night” bí ẩn từ poster
Ngày nọ, một gia đình đến xin tá túc tại ngôi nhà của Paul, và anh đã đồng ý. Biến cố bắt đầu từ đây, khi những mâu thuẫn, hiềm khích, sự ích kỷ và hoang tưởng dần xâm lấn tâm trí họ, đẩy tất cả những con người ấy đến một kết cục thảm khốc.
Ngay từ phân cảnh đầu tiên, người xem đã phải hoảng hồn khi cha ruột của Paul bị nhiễm dịch, với cơ thể phồng rộp như bị thiêu trong lửa, cùng đôi mắt sâu hoắm như ác quỷ. Thứ bệnh dịch quái ác đang hoành hành gần như không có thuốc chữa, và cách duy nhất giải thoát cho người bệnh là giết họ. Không nhạc nền giật gân, không có sự xuất hiện của bất cứ thế lực ma quỷ nào, cảnh mở đầu của It Comes at Night gieo rắc thành công nỗi sợ hãi chỉ bằng tiếng súng và hình ảnh cái xác người bị Paul thiêu chết.
Hình ảnh rùng rợn trong phim
Có thể nói, điều thú vị trong những bộ phim lấy đề tài hậu tận thế là cách mà đạo diễn xây dựng nên một thế giới suy tàn, đồng thời xác lập nên một “concept” để dẫn dắt khán giả đi theo mạch truyện. Trong Waterworld (1995), chúng ta phải ghi nhớ rằng ở thế giới đó, nước đồng nghĩa với sinh mạng; trong In Time (2011), người ta dùng thời gian thay cho tiền tệ; cũng vậy, ở thế giới mà It Comes at Night sắp đặt, căn bệnh dịch sẽ luôn trỗi dậy và tìm kiếm con mồi khi màn đêm buông xuống, và người mắc bệnh sẽ phải bị khai tử.
Với kinh phí nhỏ gọn của một bộ phim indie (phim độc lập), tác phẩm của đạo diễn Trey Edward Shults không cần sự góp mặt của một con quái vật hữu hình nào cả. Chính sự tàn nhẫn và lạnh lùng mà con người dành cho nhau mới là điều đáng sợ nhất. Đối với những tín đồ mê phim, kịch bản của It Comes at Night khá giống với 10 Cloverfield Lane ra mắt năm ngoái của đạo diễn J. J. Abrams, khi yếu tố người ngoài hành tinh chỉ xuất hiện trong vài giây ngắn ngủi.
Người mê phim khi xem “It Comes at Night” sẽ dễ liên tưởng đến “10 Cloverfield Lane”
Nói thêm về đạo diễn Trey Edward Shults, thì tác phẩm là bộ phim thứ hai mà anh cầm trịch, sau bộ phim tâm lý - hài Krisha ra mắt năm 2015. Shults từng nửa đùa nửa thật rằng kính phí 2,4 triệu USD của It Comes at Night vậy đã là lớn rồi. Bộ phim đầu tay của anh có kinh phí chỉ 300,000 USD với bối cảnh chính là căn nhà của mẹ anh, còn diễn viên thì toàn người quen.
Đến It Comes at Night, Shults đã có dịp làm việc với nhiều diễn viên có tên tuổi hơn, trong đó có Joel Edgerton. Tài tử người Úc đã trở thành gương mặt quen thuộc của làng điện ảnh những năm gần đây, với các vai diễn nổi bật trong Warrior (2011) hay The Gift (2015). Điểm chung trong các vai diễn của anh thường nằm ở chỗ lằn ranh thiện-ác không được phân định rõ ràng, người xem không thể nhìn nhận Edgerton là người hùng hay kẻ ác cho đến khi bức màn bí mật cuối cùng của kịch bản được vén lên. Và vai Paul trong It Comes at Night cũng không ngoại lệ.
Khác với hình mẫu cục cằn, điên cuồng của Howard (John Goodman) trong 10 Cloverfield Lane, Paul rất từ tốn và lãnh đạm. Anh là một người chồng tốt, một người cha đảm đang, nhưng cũng là người đưa ra những quyết định máu lạnh nhất xuyên suốt bộ phim.
Với lối diễn sắc sảo như dao cạo, Joel Edgerton bủa vây nhân vật mà mình thể hiện bằng một bầu không khí vừa ấm áp, độ lượng, dễ cảm thông, nhưng đồng thời cũng rất đáng sợ. Cho đến cảnh cao trào cuối cùng của bộ phim, sự hiện diện của Paul luôn mang đến cho người xem những khoảnh khắc thót tim.
Những diễn viên còn lại trong dàn cast khiêm tốn gồm Christopher Abbot, Carmen Ejogo, Kelvin Harrison Jr. và Riley Keough không chiếm sự trọng tâm như Paul; thế nhưng, mỗi người trong số họ như một cành cây nhỏ, góp dần nên đống lửa ghê rợn ở cảnh cuối cùng.
Đặc biệt, Kelvin Harrison Jr. dù là một diễn viên không chuyên, nhưng vẫn thể hiện được tiềm năng diễn xuất qua vai cậu con trai Travis của Paul. Chính những cơn ác mộng, những cử chỉ khó lường xuất phát từ tâm sinh lý tuổi mới lớn của Travis cũng đóng vai trò là nhân tố gây sợ hãi của phim. Nếu có thể ví Paul như nỗi sợ hãi lớn nhất, thì Travis lại là một “quả bom nổ chậm” khiến khán giả phải đổ mồ hôi hột.
Paul là một vai diễn đa chiều của Joel Edgerton
Thành công của It Comes at Night còn đến từ sự dẫn dắt tài tình của đạo diễn Trey Edward Shults. Anh như thể nắm chắc trong tay ánh sáng và bóng tối, tự do điều khiển chúng trong từng khung hình. Anh cũng hiểu rằng con người chỉ sợ hãi những gì mà họ không thực sự hiểu rõ, nên xuyên suốt phim, “con quái vật” thực sự luôn bị che giấu, khiến người xem luôn phải dè chừng bởi bất cứ điều khủng khiếp gì cũng có thể xảy ra. Khán giả đến rạp với tâm thế hoàn toàn không biết chút gì về nội dung phim (vì đã bị Shults cố tình che giấu), họ sẽ phải liên tục suy nghĩ rằng mình đang xem dòng phim kinh dị gì, thế lực siêu nhiên hay những kẻ giết người hàng loạt, hay thú dữ,... nỗi sợ hãi đến từ đâu?
Có thể thấy, It Comes at Night sở hữu một kịch bản vững chắc và gần như không có khuyết điểm, trừ việc để thưởng thức trọn vẹn tác phẩm, khán giả cần có sự kiên nhẫn và tập trung cao độ. Ngoài ra, như đã đề cập, sự độc ác của con người là mấu chốt chính cho kịch bản, nên phim không thiếu những phân đoạn có thể gây sốc, thậm chí tạo cảm xúc tiêu cực cho tâm lý của khán giả.
Giữa một rừng bom tấn ngập ngụa kỹ xảo, It Comes at Night nổi lên như một món ăn lạ, một món ăn dành cho những ai có đủ lòng can đảm. Hình ảnh ngọn lửa được dùng lại nhiều lần trong phim cũng ẩn ý khá rõ ràng về cách It Comes at Night gieo rắc sự sợ hãi: tí tách, chậm rãi từng chút một, nhưng đó sẽ là một ngọn lửa cứ lớn dần lên và bạn không thể nào dập tắt.
Theo Muzuco